1. Ma hoàng

_Ma hoàng vị cay, hơi đắng, tính ôn. Nhập kinh Phế, Bàng quang. Thứ thuốc này ở giữa rỗng mà nhẹ, có sở trường trong việc thăng tán.

_Ma hoàng có công năng phát hãn tán hàn mà giải biểu, dùng trong việc trị liệu ngoại cảm phong hàn dẫn đến các chứng biểu thực như sợ lạnh, phát nhiệt, đầu đau, mũi tắc, không có mồ hôi, mạch phù khẩn.

_Có thể tán phong làm hết ngứa, tán tà thấu chẩn, dùng trong việc trị liệu chứng ma chẩn thấu phát ra không thông sướng, cho đến các chứng phong chẩn mình mẩy ngứa ngáy.

_Tuyên Phế bình suyễn, lợi niệu tiêu thũng, dùng trong trị liệu phong hàn thúc phọc ở ngoài, phế khí ủng bế, dẫn đến ho hắng, khó thở, ngực phiền muộn không thoải mái, cho đến chứng thủy thũng kèm theo biểu chứng.

_Ma hoàng còn có thể ôn tán hàn tà, trị các chứng tý thống do phong thấp, âm thư, đàm hạch (Âm thư: chứng nhọt không nóng, không đau, màu sắc da ít thay đổi. Đàm hạch: chứng kết hạch do đàm).

***

  1. Quế chi.

Quế chi vị cay, ngọt, tính ôn. Nhập kinh Tâm, Phế, Bàng quang. Quế chi thể chất nhẹ, sắc đỏ, thăng mà không giáng.

_Có tác dụng giải cơ phát biểu, điều hòa dinh vệ, dùng trong trị liệu các chứng ngoại cảm phong hàn, biểu hư có mồ hôi, ố phong, phát nhiệt

_Ôn dương hóa khí, lợi thủy tiêu thũng, dùng trong trị liệu Tâm Tỳ dương hư, thủy thấp nội đình, dẫn đến các chứng ngực sườn đầy mãn, Tâm quý, khí đoản, cho đến thủy thũng, tiểu tiện không thông lợi.

_Có thể hoành hành ra vai tay, ôn kinh thông mạch, khư phong trừ thấp, tuyên thông những nơi bế trở, khư hàn chỉ thống, dùng trong trị liệu các chứng hung tý, hung thống (đau tim do bệnh mạch vành), Tâm quý, khí đoản, biệt khí (Biệt khí: khí bí tắc), mạch kết đại (代).

_Trị liệu các chứng phong hàn thấp tý, vai cánh tay các khớp đau nhức, cho đến phụ nữ kinh hàn ứ trệ, kinh nguyệt không điều hòa, bế kinh, thống kinh.

_Bản thảo sớ chứng viết: “Quế chi, phương pháp dùng nó có 6 là hòa dinh, thông dương, lợi thủy, hạ khí, hành ứ, bổ trung”.

***

  1. Công năng phối ngũ.

Ma hoàng tân ôn khí bạc, trong rỗng ngoài thông suốt, thiện trong việc đi ở cơ biểu phần vệ, khai tấu lý tán hàn tà, khai huyền phủ để phát hãn (huyền phủ: lỗ chân lông); Quế chi tân ôn phát tán, sắc đỏ đi vào dinh, giải cơ để hòa dinh, phối hợp với Ma hoàng đi vào dinh phận, theo Ma hoàng lại có thể đi ra huyết phận, để dẫn tà khí ở dinh phận đạt ra cơ biểu, làm ra mồ hôi mà giải tán. Hai thứ thuốc phối ngũ, phát hãn giải biểu, tốt trong trị cảm mạo phong hàn, các chứng biểu thực ố hàn phát nhiệt, đầu, thân đau nhức, là “trọng tễ” tân ôn giải biểu.

***

  1. Chủ trị.

_Cảm mạo phong hàn dẫn đến các chứng biểu thực phát nhiệt, không có mồ hôi, sợ lạnh, sợ gió, đầu, thân đau nhức.

_Các chứng tý thống do phong hàn thấp tà gây ra.

_Biểu tà ủng thịnh, dương khí không được tuyên phát mà dẫn đến các chứng khái suyễn (ho hen).

***

  1. Liều lượng thường dùng.

Ma hoàng 3~6g, Quế chi 6~10g.

***

  1. Kinh nghiệm.

_Ma hoàng và Quế chi phối ngũ bắt đầu từ bài Ma hoàng thang trong sách Thương hàn luận của Trọng Cảnh. Dùng trong trị chứng biểu thực bệnh ở kinh thái dương phong hàn ở biểu, chứng tý do ba thứ khí phong hàn thấp dẫn đến, cho đến chứng ho hen do gió lạnh (lãnh phong hao thấu).

_Ma hoàng, Quế chi phối ngũ là trọng tễ tân ôn giải biểu. Tác dụng khai tấu lý tán hàn tà của tễ này là mạnh mẽ nhất, mùa đông năm 1963 đã từng trị người bệnh ở vùng cao, lạnh, đêm muộn mùa đông ra ngoài, bị đại hàn tập nhiễm, ố hàn phát nhiệt, tứ chi đau nhức, không thể xoay chuyển, dùng 1 thang Ma hoàng thang, mồ hôi ra mà giải được. Khi ấy Ma hoàng khai huyền phủ hành vệ khí, Quế chi giải cơ biểu hòa dinh khí, dùng đồng thời đều nặng như nhau.

_Nếu để trị chứng tý thống, thì dùng Quế chi ôn kinh tán hàn, cùng với lấy việc thông huyết mạch làm chủ, mà Ma hoàng giải phong hàn tuyên vệ khí làm phụ trợ (Ma hoàng phối với Quế chi trị tý thống, chỉ thích hợp với chứng phong hàn tý thống, nếu lấy Phụ tử, Phòng phong làm tá, hiệu quả của nó sẽ tốt hơn nữa)

_Trong việc trị suyễn, thì Ma hoàng là công năng chuyên dụng cho nên lấy Ma hoàng làm chủ.

_Ma hoàng, Quế chi phối ngũ có thể điều hòa dinh vệ, tăng cường sức phát hãn giải biểu, đúng như lời mà Thang dịch bản thảo viết: “Ma hoàng là thuốc trị vệ thực, Quế chi là thuốc trị vệ hư. Quế chi, Ma hoàng tuy là thuốc trị chứng ở kinh thái dương, kỳ thực là thuốc chữa vào dinh vệ. Phế chủ vệ (là khí), Tâm chủ dinh (là huyết), vì thế Ma hoàng là thuốc của kinh thủ thái âm, Quế chi là thuốc của kinh thủ thiếu âm. Vì vậy chứng thương hàn thương phong mà ho, dùng Ma hoàng, Quế chi là nguồn gốc của thang dịch”.

_Trên thực tế lâm sàng, khi muốn phát hãn giải biểu, hai thứ thuốc Ma hoàng, Quế chi liều lượng ngang nhau (mỗi thứ 6~10g) là thích hợp, Ma hoàng dùng thứ còn sống (Sinh ma hoàng); khi muốn bình suyễn Quế chi nhiều hơn Ma hoàng, Ma hoàng nên dùng chích với mật. Đằng Nghi Quang nói: Dùng Quế chi 6g, Ma hoàng 3g, trước giờ chưa từng thấy phát hãn, ngược lại lại thấy bình suyễn chỉ khái, có thể thấy chứng hen suyễn nguyên nhân do bên trong hay bên ngoài dẫn đến, không có Quế chi trợ giúp Ma hoàng thì không thể đủ được.

 

Nhạc Phong dịch và biên tập.

Theo Thi Kim Mặc đối dược.

Một số chú thích trong ngoặc đơn là lời giải thích thêm của người dịch.

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *